Bán lộ giang-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật (1) Năm Kỷ-Mão
khan tiếng
Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng,
Mở giọng thi-nhân gợi nỗi phiền.
Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi,
Mực tàu đã cạn ráo ngòi nghiên.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
*
Trang 257
KHUYÊN BỚT CHO VAY
Một cuộc phù-vân có mấy hơi,
Cầu xin bá-tánh nhậm đôi lời.
Cho vay mắt-mỏ từ nay bớt,
Có hỏi nới tay để giúp đời.
Nạn khổ đâu đâu đều túng rối,
Tai-ương chốn chốn khắp cùng nơi.
Tiền ma gạo quỉ đừng nên trữ,
Sau cũng tiêu theo luật của trời
*
Hòa-Hảo, năm Kỷ-Mão
CHẳNG RA HƠI
( Ông Nguyễn-kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng-giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây )
Định-Yên cụ lão mới sang chơi,
Tâm bịnh bất an khó cạn lời.
Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác,
Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi.
*
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Trang 258
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN
tức chín Diệm xướng (1)
Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu-phiền.
Thanh-manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền.
*
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa.
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa.
ĐỨC THẦY đáp
Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền.
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền.
*
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa.
Tríu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa.
*
Trang 259
Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm.
Khẩn-vái trì tâm người thượng-cổ,
May Trời phò-hộ phước cho thầm.
*
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ¡t qua truông.
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
*
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ Mão
Tặng Ông GIÁO ĐÀNG
( Lúc ấy ông nầy đang dạy học tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc )
Tâm tánh ngày nay muốn việc lành,
Tu hành miệng lưỡi muốn lanh lanh.
Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ,
Cố chí ngày kia sẽ đạt thành.
***
Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh,
Trần-thế lánh xa phải học rành.
Lục-căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
Nhân-ngã, sân-si hãy dẹp đành.
*
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Trang 260
Hỏi HỘI LONG-HOA
Long-Hoa hội ấy còn xa,
Rán mà tu niệm đặng nhờ thân sau.
Phải chi hội ấy hầu gần,
Thì Ông hà tất xuống trần làm chi ? (1)
*
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Tặng Ông GIÁO XOÀI
( tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả,
lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc )
Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy,
Vóc hình mập-mạp học khoa tây.
Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ,
ạ, ẹ, a, b đủ một bầy.
*
Một bầy em trẻ muốn theo tây,
Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy.
Thương-thảm tấm tình hay nóng-nảy,
Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say.
*
Hòa-Hảo, năm Kỷ-Mão
Trang 261
THI XUÂN
Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung.
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc-cung.
*
Chúc mừng năm mới, mới buổi qua,
Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà.
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba.
*
Kỷ-Mão năm nay đã hết rồi,
Tâm-thần hoài-tưởng chuyện xa-xôi.
Đạo mầu Nam-địa càng thâm-diệu,
Dẫn-dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi.
*
Bước qua năm mới, mới mừng à,
Khuyến-khích dân tầm Đạo Thích-Ca.
Tự giác, giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa.
*
Xa-hoa năm mới, mới khổ à,
Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua.
Đạo-lý xem tường âu mới hãn,
Rán tìm cặn-kẻ nỗi ma-ha.
*
Năm Thìn bước tới thiệt là rồng.
Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong.
Trang 262
Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng.
*
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi !
Thế-giới đao-binh ruột rã-rời.
Khốn-nguy đa sự chào xuân mới,
Dân-chúng hoàn-cầu khó thảnh-thơi.
*
Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng.
Chạnh cám cha còn con chẳng biết,
Phải nhờ đạo-đức mới tường thông.
*
Phần ta thương chúng luống âu-sầu,
Dân sự nào tường nẻo cao sâu.
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
Nhưng vì bổn-phận phải toan âu.
*
Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi,
Đạo-đức nhiệm-mầu chẳng có chơi.
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời.
*
Mãnh hổ đâu đua chí tang-bồng,
Rạng mày nở mặt với non sông.
Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-thủy,
Cơn buồn chấp bút chuyển huyền-thôn
***
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
( Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ )